Quà tặng mỹ nghệ, quà tặng sự kiện, quà tặng trống đồng
  • nguyenviet109@gmail.com
  • 08:00 - 18:00
  • 0986.896.995

tượng phật, tượng phật dược sư, tượng phật đồng, tượng thờ cúng

Kích thước: Cao 25cm

Chất liệu: Đồng vàng giả cổ

tượng phật, tượng phật dược sư, tượng phật đồng, tượng thờ cúng tượng phật, tượng phật dược sư, tượng phật đồng, tượng thờ cúng tượng phật, tượng phật dược sư, tượng phật đồng, tượng thờ cúng tượng phật, tượng phật dược sư, tượng phật đồng, tượng thờ cúng

Tượng đầu phật, Đầu phật Tổ Như Lai, Phật tổ Thích Ca Mâu Ni, Tượng đồng, tượng Phật

Cao 15cm, cao 20cm, cao 25cm

Chất liệu: đồng vàng giả cô

Tượng phật trang trí phòng khách, tượng đồng phong thủy thờ cúng,Tượng đầu phật, Đầu phật Tổ Như Lai, Phật tổ Thích Ca Mâu Ni, Tượng đồng, tượng Phật

Tượng thích ca mâu ni được đúc từ đồng vàng nguyên chất.

Bao gồm các kích thước để bàn, bàn thờ, nhà thờ, chùa, đình, ngoài trời.

 

tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng 8 tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng 7 tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng 6 tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng 5 tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng 4 tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng 3 tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng 2 tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng tượng phật thích ca mâu ni bằng đồng thờ cúng

=================

 

 

Thích ca Mâu Ni là tiếng Phạn, dịch: Năng Nhân-Tịch-Mặc, Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên; Phật có nghĩa là: đấng giác ngộ, Đức Bổn Sư khi xưa là Thái Tử Tất Đạt Đa, ở xứ Trung Ấn Độ, nước Ca Tỳ La Vệ, cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Ma Da Hoàng Hậu, Thái tử xuất gia lúc 19 tuổi, đến 30 tuổi thành đạo, thuyết pháp 50 năm trụ đời 80 tuổi. Đức Phật ra đời độ vô lượng chúng sanh, hiện nay đạo pháp của Ngài được khắp giới Á, Âu tôn trọng.

Danh Hiệu

Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi lòng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên tĩnh.

Lược Sử

Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Ðộ có vị thánh xuất thế, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ấy, xã hội Ấn Ðộ chia làm bốn giai cấp: Bà La Môn (Brahmanes), Sát Ðế Lỵ (Kastryas), Phệ Xá (Vaisyas) và Thủ Ðà (Soudas). Ðức Phật Thích Ca sanh trong dòng quý tộc thuộc giai cấp thứ hai. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddodhana) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-Gia (Maya), ở thành Ca Tỳ La (Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào ngày trăng tròn, tháng hai Ấn Ðộ, nhằm ngày rằm tháng tư âm-lịch Trung Hoa. Tên Ngài là Sĩ Ðạt Ta (Sidhartha).

Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đã mồ côi mẹ, nhờ Dì mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đã dạo chơi bốn cửa thành mục kích cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm lòng thương cảm vô hạn, quyết tìm con đường giải thoát cho mình và tất cả chúng sinh. Vì thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng, và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can.

Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi tìm thấy học đạo. Ngài đã từng tham học với hai vị sư trứ danh đương thời là A La Lã Ca Lan (Aralah-Kalama) và Uất Ðà Già La Ma (Udraka-Kamaputar). Nhưng xét đến kết quả đạo lý của họ đều không làm cho Ngài thỏa mãn.

Sau đó, Ngài từ giả họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy trì mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả gì. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chính, Ngài liền bỏ từ nó, trở lại lối sống bình thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở dưới cội Bồ đề, Ngài bừng ngộ thấy rõ chân lý của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Sau khi đã chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng mình liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 45 năm, chu du đến một phần ba (1/3) xứ Ấn Ðộ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương Xá (Rakagrha) nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), thành Phệ Xá Ly (Vésali), thành Xá Vệ (Shavasti) nước Câu Tát La (Kosala) v.v…

Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta la song thọ (Sala) ngoài thành Câu Thi (Kusinagara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết bàn (Nibbana).

Biểu Tướng

Vào trong các chùa Phật giáo Bắc Tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức Thích Ca ngự giữa, bên phải đức Phật Thích Ca là Phật A Di Ðà, bên trái là Phật Di Lặc (Phật tương lai). Lối thờ nầy tượng trưng tam thế Phật, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Ðà là Phật quá khứ, Phật Di Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là đức Trung Tôn.

Tượng Phật Thích Ca không giống người Ấn Ðộ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư (3/4).

Thâm Ý

Nhìn sơ qua hình tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn Ðộ ngồi trên tòa cỏ dưới cội cây Bồ Ðề?

Bởi vì Bắc Tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là pháp thân thường trụ. Hiện thân Thái Tử Sĩ Ðạt Ta tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi. Ðã là hóa thân tùy cơ cảm thì ở đâu có cảm đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ. Vì thế, ở Việt Nam, cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện người Việt Nam, ở Trung Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung Hoa để hóa độ… Ðó là tư tưởng siêu thực, không còn thấy Phật ở trong một hình thức cố định nào. Ðức Phật đã đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng nầy, Bắc Tông Phật giáo đối với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gũi thân mật và phát sinh tín ngưỡng “Phật tùy tâm hiện”. Ta hãy nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Thái Tôn, khi ông nầy lên núi cầu đạo:

“Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là chân Phật. Nay bệ hạ muốn giác ngộ tâm ấy thì đứng ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài”. (Khóa Hư Lục)

Ðã tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm mình tưởng Phật tức là có Phật hiện đến. Do đó phát sinh tín ngưỡng “Phật hiện cứu khổ mọi người”. Cho nên, những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa.

Phật ngự trên đài sen cũng là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi vì hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong lòng vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Ðó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại còn đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. Vì cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chơn thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa bãi cát trắng phau, hay trên gò đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quý trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ.

Ðức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đình, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đình trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Ðức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng.

Bắc tông Phật giáo đặc trọng ý nghĩa “thanh tịnh trong ô nhiễm” nên chủ trương “phiền não tức bồ đề”, “sanh tử tức niết bàn”. Không thể tìm Bồ Ðề ngoài phiền não, không thể có Niết bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền não chúng ta khéo chuyển sẽ thành Niết bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. Vì thế, đi đến chủ trương “tích cực nhập thế”. Bởi vì không thể có đức Phật ngoài chúng sanh, không thể có cõi Cực lạc thanh tịnh ngoài cõi Ta bà uế trược.

Ðôi mắt đức Phật đăm chiêu nhìn xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lý Phật dạy là giáo lý nội quan, luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm mình là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhơn sinh. Vì thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm và hành động nơi tự thân mình. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuộc lấy kết quả khổ đau về nơi mình. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của mình. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua Trần Nhân Tôn hỏi về bổn phận, tôn chỉ thiền, Tuệ Trung Thượng sĩ đáp:

“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha tắc” (Soi lại nơi mình là bổn phận, không từ nơi người mà được). (Tam tổ thực lục)

Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đăm chiêu nhìn xuống. Như khi chúng ta kiểm soát lại tâm tư hay hành động của mình, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nhìn xuống. Khi chúng ta muốn van xin điều gì với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. Vì thế, khi nhìn lên đôi mắt đức Phật, đôi mắt các vị thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan.

Trên đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế (cục thịt đỏ), để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm… trên đảnh đức Phật có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ Tát từ Sơ địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho pháp thân. Vì chúng sanh không thể thấy nên gọi là “Vô kiến đảnh tướng”.

Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong kinh nói chung quanh đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm. Bởi vì con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác thì hiện lên vừng hắc ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện thì hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến. Vì mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rõ ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể biết được phần nào. Như người hiền lành đến trước chúng ta, nhình thoáng gương mặt là ta có cảm tình ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nhìn sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào hình thức, mà nó siêu hình thức. Thiết thực nhứt là các anh đồ tể khi vào xóm làng bị chó theo đuổi sủa không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nhìn qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo hóa. Ðức Phật là con người thuần thiện, tâm thanh tịnh, trí sáng suốt thì ánh sáng hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên.

Phật giáo Bắc Tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Tượng này hình một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống. Ðó là biểu thị một bậc thánh nhân xuất thế, vừa lọt lòng mẹ đã có những hành động siêu phàm. Và câu Ngài thốt ra lúc ấy là:

Trên trời dưới trời,
Chỉ ta hơn hết;
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.

Nghĩa là từ nhơn gian đến các cõi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh, chết, chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc Tông Phật giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ “ta” ám chỉ pháp thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không gì bì kịp.

Ðây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong hình tượng đức Phật Thích Ca. Mong rằng mỗi khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ý thức được mình phải làm gì đối với hình ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ý, rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài.

Tượng Phật Di lặc khảm tam khí, Tượng Phật Di Lặc, Tượng Thờ cúng, Tượng khảm tam khí

Kích thước: cao 30cm, cao 60cm

Chất liệu: Đồng đỏ, khảm bạc

tuong-phat-di-lac-121567 tuong-phat-di-lac-121569 tuong-phat-di-lac-121570 tuong-phat-di-lac-121573 tuong-phat-di-lac-121575 tuong-phat-di-lac-121576 tuong-phat-di-lac-121579 tuong-phat-di-lac-121580

– Di Lặc (zh. 彌勒, sa. maitreya, pi. metteyya là cách phiên âm, dịch nghĩa là Từ Thị (慈氏), “người có lòng từ”, cũng có tên khác là Vô Năng Thắng (zh. 無能勝, sa. ajita), phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa, là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái Đất. Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Theo kinh điển, Bồ Tát Di-lặc sẽ giáng sinh trong khoảng 30.000 năm nữa.

 

Trong tranh hay tượng, Di-lặc ngồi trên mặt đất, biểu tượng sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh. Tại Trung Quốc, Bồ Tát Di-lặc cũng hay được trình bày với tướng mập tròn vui vẻ, trẻ con quấn quít xung quanh. Người ta tin rằng đó chính là hình ảnh của Bố Đại Hòa thượng, một hóa thân của Di-lặc ở thế kỉ thứ 10. Nếu năm đức Phật xuất hiện trên trái đất nói trên được xem là hóa thân của Ngũ Phật thì Bồ Tát Di-lặc được xem như hóa thân của Thành sở tác trí (xem Phật gia, Ngũ trí).

Có thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di-lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa. Một số học giả cho rằng, vị này chính là Maitreyanatha (sa. maitreyanātha), thầy truyền giáo lí Duy thức cho Vô Trước (sa. asaṅga). Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận:

 

  1. Đại thừa tối thượng luận hoặc Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận (sa. mahāyānottaratantra)
  2. Pháp pháp tính phân biệt luận (sa. dharmadharmatāvibaṅga)
  3. Trung biên phân biệt luận (sa. madhyāntavibhāga-śāstra)
  4. Hiện quán trang nghiêm luận (sa. abhisamayālaṅkāra)

Tượng phật di lặc, tượng di lặc gánh tiền, tượng thần tài di lặc

Mô tả: Tượng cao 10cm, 15cm, 20cm, 25cm, 40cm, thế đứng thẳng, đeo tiền vàng. Hoặc thế đứng thẳng Kéo bao tiền chu du thiên hạ.

tượng phật di lặc, tượng thờ cúng,tượng khảm tam khí, tượng phật tượng phật di lặc, tượng thờ cúng,tượng khảm tam khí, tượng phật tượng phật di lặc, tượng thờ cúng,tượng khảm tam khí, tượng phật

Tượng Phật Di Lạc gánh vàng

Di Lặc (zh. 彌勒, sa. maitreya, pi. metteyya là cách phiên âm, dịch nghĩa là Từ Thị (慈氏), “người có lòng từ”, cũng có tên khác là Vô Năng Thắng (zh. 無能勝, sa. ajita), phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa, là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái Đất. Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Theo kinh điển, Bồ Tát Di-lặc sẽ giáng sinh trong khoảng 30.000 năm nữa.

Trong tranh hay tượng, Di-lặc ngồi trên mặt đất, biểu tượng sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh. Tại Trung Quốc, Bồ Tát Di-lặc cũng hay được trình bày với tướng mập tròn vui vẻ, trẻ con quấn quít xung quanh. Người ta tin rằng đó chính là hình ảnh của Bố Đại Hòa thượng, một hóa thân của Di-lặc ở thế kỉ thứ 10. Nếu năm đức Phật xuất hiện trên trái đất nói trên được xem là hóa thân của Ngũ Phật thì Bồ Tát Di-lặc được xem như hóa thân của Thành sở tác trí (xem Phật gia, Ngũ trí).

Có thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di-lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa. Một số học giả cho rằng, vị này chính là Maitreyanatha (sa. maitreyanātha), thầy truyền giáo lí Duy thức cho Vô Trước (sa. asaṅga). Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận:

1. Đại thừa tối thượng luận hoặc Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận (sa. mahāyānottaratantra)
2. Pháp pháp tính phân biệt luận (sa. dharmadharmatāvibaṅga)
3. Trung biên phân biệt luận (sa. madhyāntavibhāga-śāstra)
4. Hiện quán trang nghiêm luận (sa. abhisamayālaṅkāra)
5. Đại thừa kinh trang nghiêm luận (sa. mahāyānasūtralaṅkāra

 

– Chúng tôi là chuyên cung cấp và sản xuất các sản phẩm bằng đồng: Tranh đồng, tranh chữ đồng, các sản phẩm đúc từ đồng như đỉnh đồng, lư đồng, cuốn thư, đồ phong thủy, tượng đồng.
– Các sản phẩm của chúng tôi đặc biệt đều làm thủ công, có tính nghệ thuật cao, phù hợp với mọi không gian trang trí từ phong cách Á, Âu, cổ điển và hiện đại.
– Chúng tôi nhận đặt hàng theo yêu cầu theo mọi mẫu theo yêu cầu với thời gian ngắn. Đặc biệt, các doanh nghiệp muốn món quà của mình cho đối tác, nhân viên thêm ý nghĩa, hãy liên hệ với chúng tôi ngay.
– Tất cả các sản phẩm của chúng tôi được sản xuất tỉ mỉ đảm bảo chống ôxi hóa trong quá trình sử dụng, sau 5-10 năm sản phẩm vẫn như mới.

Tượng thích ca mâu ni sơ sinh, tượng chỉ thiên chỉ địa được đúc từ đồng  nguyên chất.
Kích thước cao 25cm – 35cm – 50cm

Chất liệu: Đồng đỏ, đồng mắt cua, đồng vàng giả cổ

tượng thích ca mâu ni đản sinh tượng thích ca mâu ni đản sinh, tượng phật chỉ thiên chỉ địa tượng thích ca mâu ni đản sinh, tượng phật chỉ thiên chỉ địa

===============

 

Danh Hiệu Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi lòng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên tĩnh.

Lược Sử

Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Ðộ có vị thánh xuất thế, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ấy, xã hội Ấn Ðộ chia làm bốn giai cấp: Bà La Môn (Brahmanes), Sát Ðế Lỵ (Kastryas), Phệ Xá (Vaisyas) và Thủ Ðà (Soudas). Ðức Phật Thích Ca sanh trong dòng quý tộc thuộc giai cấp thứ hai. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddodhana) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-Gia (Maya), ở thành Ca Tỳ La (Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào ngày trăng tròn, tháng hai Ấn Ðộ, nhằm ngày rằm tháng tư âm-lịch Trung Hoa. Tên Ngài là Sĩ Ðạt Ta (Sidhartha).

Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đã mồ côi mẹ, nhờ Dì mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đã dạo chơi bốn cửa thành mục kích cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm lòng thương cảm vô hạn, quyết tìm con đường giải thoát cho mình và tất cả chúng sinh. Vì thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng, và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can.

Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi tìm thấy học đạo. Ngài đã từng tham học với hai vị sư trứ danh đương thời là A La Lã Ca Lan (Aralah-Kalama) và Uất Ðà Già La Ma (Udraka-Kamaputar). Nhưng xét đến kết quả đạo lý của họ đều không làm cho Ngài thỏa mãn.

Sau đó, Ngài từ giả họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy trì mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả gì. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chính, Ngài liền bỏ từ nó, trở lại lối sống bình thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở dưới cội Bồ đề, Ngài bừng ngộ thấy rõ chân lý của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Sau khi đã chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng mình liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 45 năm, chu du đến một phần ba (1/3) xứ Ấn Ðộ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương Xá (Rakagrha) nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), thành Phệ Xá Ly (Vésali), thành Xá Vệ (Shavasti) nước Câu Tát La (Kosala) v.v…

Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta la song thọ (Sala) ngoài thành Câu Thi (Kusinagara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết bàn (Nibbana).

Biểu Tướng

Vào trong các chùa Phật giáo Bắc Tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức Thích Ca ngự giữa, bên phải đức Phật Thích Ca là Phật A Di Ðà, bên trái là Phật Di Lặc (Phật tương lai). Lối thờ nầy tượng trưng tam thế Phật, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Ðà là Phật quá khứ, Phật Di Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là đức Trung Tôn.

Tượng Phật Thích Ca không giống người Ấn Ðộ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư (3/4).

Thâm Ý

Nhìn sơ qua hình tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn Ðộ ngồi trên tòa cỏ dưới cội cây Bồ Ðề?

Bởi vì Bắc Tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là pháp thân thường trụ. Hiện thân Thái Tử Sĩ Ðạt Ta tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi. Ðã là hóa thân tùy cơ cảm thì ở đâu có cảm đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ. Vì thế, ở Việt Nam, cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện người Việt Nam, ở Trung Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung Hoa để hóa độ… Ðó là tư tưởng siêu thực, không còn thấy Phật ở trong một hình thức cố định nào. Ðức Phật đã đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng nầy, Bắc Tông Phật giáo đối với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gũi thân mật và phát sinh tín ngưỡng “Phật tùy tâm hiện”. Ta hãy nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Thái Tôn, khi ông nầy lên núi cầu đạo:

“Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là chân Phật. Nay bệ hạ muốn giác ngộ tâm ấy thì đứng ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài”. (Khóa Hư Lục)

Ðã tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm mình tưởng Phật tức là có Phật hiện đến. Do đó phát sinh tín ngưỡng “Phật hiện cứu khổ mọi người”. Cho nên, những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa.

Phật ngự trên đài sen cũng là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi vì hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong lòng vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Ðó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại còn đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. Vì cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chơn thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa bãi cát trắng phau, hay trên gò đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quý trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ.

Ðức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đình, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đình trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Ðức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng.

Bắc tông Phật giáo đặc trọng ý nghĩa “thanh tịnh trong ô nhiễm” nên chủ trương “phiền não tức bồ đề”, “sanh tử tức niết bàn”. Không thể tìm Bồ Ðề ngoài phiền não, không thể có Niết bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền não chúng ta khéo chuyển sẽ thành Niết bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. Vì thế, đi đến chủ trương “tích cực nhập thế”. Bởi vì không thể có đức Phật ngoài chúng sanh, không thể có cõi Cực lạc thanh tịnh ngoài cõi Ta bà uế trược.

Ðôi mắt đức Phật đăm chiêu nhìn xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lý Phật dạy là giáo lý nội quan, luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm mình là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhơn sinh. Vì thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm và hành động nơi tự thân mình. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuộc lấy kết quả khổ đau về nơi mình. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của mình. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua Trần Nhân Tôn hỏi về bổn phận, tôn chỉ thiền, Tuệ Trung Thượng sĩ đáp:

“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha tắc” (Soi lại nơi mình là bổn phận, không từ nơi người mà được). (Tam tổ thực lục)

Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đăm chiêu nhìn xuống. Như khi chúng ta kiểm soát lại tâm tư hay hành động của mình, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nhìn xuống. Khi chúng ta muốn van xin điều gì với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. Vì thế, khi nhìn lên đôi mắt đức Phật, đôi mắt các vị thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan.

Trên đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế (cục thịt đỏ), để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm… trên đảnh đức Phật có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ Tát từ Sơ địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho pháp thân. Vì chúng sanh không thể thấy nên gọi là “Vô kiến đảnh tướng”.

Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong kinh nói chung quanh đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm. Bởi vì con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác thì hiện lên vừng hắc ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện thì hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến. Vì mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rõ ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể biết được phần nào. Như người hiền lành đến trước chúng ta, nhình thoáng gương mặt là ta có cảm tình ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nhìn sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào hình thức, mà nó siêu hình thức. Thiết thực nhứt là các anh đồ tể khi vào xóm làng bị chó theo đuổi sủa không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nhìn qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo hóa. Ðức Phật là con người thuần thiện, tâm thanh tịnh, trí sáng suốt thì ánh sáng hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên.

Phật giáo Bắc Tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Tượng này hình một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống. Ðó là biểu thị một bậc thánh nhân xuất thế, vừa lọt lòng mẹ đã có những hành động siêu phàm. Và câu Ngài thốt ra lúc ấy là:

Trên trời dưới trời,
Chỉ ta hơn hết;
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.

Nghĩa là từ nhơn gian đến các cõi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh, chết, chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc Tông Phật giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ “ta” ám chỉ pháp thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không gì bì kịp.

Ðây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong hình tượng đức Phật Thích Ca. Mong rằng mỗi khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ý thức được mình phải làm gì đối với hình ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ý, rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài.

Tượng Phật Bà đứng thiền, tượng phật Bà bằng đồng

Kích thước: Cao 60cm và 105cm
Chất liệu: Đồng giả cổ

tượng quan thế âm bồ tát đứng tượng quan thế âm bồ tát đứng tượng quan thế âm bồ tát đứng tượng quan thế âm bồ tát đứng

 

Tượng Phật Di Lạc Kéo tiền, Di lặc Thiềm Thừ,  Tượng Phật Di Lạc, tượng thờ cúng, tượng phật di lặc

Chất liệu: Đồng vàng giả cổ

Màu sắc : Giả cổ vàng, đỏ

Kích thước: Dài 35cm , cao 28cm

tượng phật di lặc kéo túi tiền có thiềm thừ tượng phật di lặc kéo túi tiền có thiềm thừ 1

 

Nhận Phân phối tượng Phật Di Lặc với số lượng lớn cho quý khách hàng bán lẻ.

 

————————–

 

“Dựa vào những trích dẫn trong kinh sách đại thừa chúng ta tin rằng trong vô lượng năm sắp tới sẽ có một ngàn vị Phật ra đời. Đây là thời đại của vị Phật thứ 4, Phật Thích Ca Mâu Ni, với giáo lý đang tồn tại của Ngài. Vị Phật thứ năm sẽ là Phật Di Lặc.”
— Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.

 

tượng phật di lặc kéo túi tiền 3 tượng phật di lặc kéo túi tiền 2 tượng phật di lặc kéo túi tiền

Phật Di Lặc Là Ai?

Maitreya (Di Lặc) xuất xứ từ Phạn ngữ “maitri” có nghĩa là “từ bi“. Với lòng từ bi và trí tuệ vô lượng qua ngôn ngữ và hành động chư Phật dẫn dắc chúng ta đến nơi giải thoát.

Khi giáo lý Đức Thích Ca không còn trên thế gian này chúng sinh sẽ trãi qua nhiều đau khổ bất hạnh khiến Đức Di Lặc động lòng từ bi nên thể hiện thành một vị đại sư thân tướng trang nghiêm tốt đẹp dạy chúng sinh thực hành hạnh nhân ái.

 

Tượng Phật Di Lạc nằm trên quạt Ba Tiêu, Tượng Phật Di Lạc, Phật Di Lặc, tượng thờ cúng, tượng phật di lặc.

Chất liệu: Đồng vàng và đồng đỏ.

Màu sắc : Giả cổ vàng, đỏ.

Kích thước: Dài 25cm , cao 23cm.

 

Ảnh số 27Ảnh số 28

 

Nhận Phân phối tượng Phật Di Lặc với số lượng lớn cho quý khách hàng bán lẻ.

 

“Dựa vào những trích dẫn trong kinh sách đại thừa chúng ta tin rằng trong vô lượng năm sắp tới sẽ có một ngàn vị Phật ra đời. Đây là thời đại của vị Phật thứ 4, Phật Thích Ca Mâu Ni, với giáo lý đang tồn tại của Ngài. Vị Phật thứ năm sẽ là Phật Di Lặc.”
— Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.

 

Phật Di Lặc Là Ai?

Maitreya (Di Lặc) xuất xứ từ Phạn ngữ “maitri” có nghĩa là “từ bi“. Với lòng từ bi và trí tuệ vô lượng qua ngôn ngữ và hành động chư Phật dẫn dắc chúng ta đến nơi giải thoát.

Khi giáo lý Đức Thích Ca không còn trên thế gian này chúng sinh sẽ trãi qua nhiều đau khổ bất hạnh khiến Đức Di Lặc động lòng từ bi nên thể hiện thành một vị đại sư thân tướng trang nghiêm tốt đẹp dạy chúng sinh thực hành hạnh nhân ái.

 

Các mẫu tượng Tượng Phật Di Lạc nằm, Tượng Phật Di Lạc, Phật Di Lặc, tượng thờ cúng, tượng phật, di lặc

Chất liệu: Đồng vàng và đồng đỏ

Màu sắc : Giả cổ vàng, đỏ

Kích thước: Dài 15cm – 25cm

 

Ảnh số 30

 

Nhận Phân phối tượng Phật Di Lặc với số lượng lớn cho quý khách hàng bán lẻ.

 

————————–

 

“Dựa vào những trích dẫn trong kinh sách đại thừa chúng ta tin rằng trong vô lượng năm sắp tới sẽ có một ngàn vị Phật ra đời. Đây là thời đại của vị Phật thứ 4, Phật Thích Ca Mâu Ni, với giáo lý đang tồn tại của Ngài. Vị Phật thứ năm sẽ là Phật Di Lặc.”
— Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.

 

Phật Di Lặc Là Ai?

Maitreya (Di Lặc) xuất xứ từ Phạn ngữ “maitri” có nghĩa là “từ bi“. Với lòng từ bi và trí tuệ vô lượng qua ngôn ngữ và hành động chư Phật dẫn dắc chúng ta đến nơi giải thoát.

Khi giáo lý Đức Thích Ca không còn trên thế gian này chúng sinh sẽ trãi qua nhiều đau khổ bất hạnh khiến Đức Di Lặc động lòng từ bi nên thể hiện thành một vị đại sư thân tướng trang nghiêm tốt đẹp dạy chúng sinh thực hành hạnh nhân ái.